Forex hôm nay: Đồng đô la Mỹ tích luỹ đà giảm trước thềm công bố dữ liệu thông thường
Dưới đây là những thông tin bạn cần biết vào thứ Tư, ngày 24 tháng 4:
Sau khi suy yếu trước các đối thủ chính trong phiên giao dịch tại Mỹ vào thứ Ba, đồng đô la Mỹ (USD) dường như đã ổn định vào buổi sáng thứ Tư tại châu Âu. Dữ liệu tâm lý IFO từ Đức sẽ được những người tham gia thị trường theo dõi chặt chẽ vào giữa tuần. Cuối ngày, danh sách kinh tế Mỹ sẽ công bố Đơn đặt hàng hàng hoá lâu bền cho tháng 3.
Chỉ số USD quay đầu giảm trong nửa cuối ngày thứ Ba và đóng cửa ngày giảm 0,4% sau khi dữ liệu từ Mỹ cho thấy hoạt động kinh doanh trong khu vực tư nhân mở rộng với tốc độ chậm lại vào đầu tháng 4. Chỉ số PMI tổng hợp của S&P Global đã giảm xuống 50,9 từ mức 52,1 trong tháng 3, trong khi PMI ngành sản xuất của S&P Global rơi vào vùng giảm, đạt 49,9. Đầu thứ Tư, Chỉ số USD dao động trong phạm vi hẹp dưới 106,00 và lãi suất trái phiếu chính phủ Mỹ kỳ hạn 10 năm duy trì ở mức tăng khiêm tốn hàng ngày trên 4,6%. Sau khi các chỉ số chính của Phố Wall ghi nhận mức tăng trong ngày thứ hai liên tiếp vào thứ Ba, hợp đồng tương lai chỉ số chứng khoán Mỹ giao dịch trong vùng tích cực vào buổi sáng châu Âu.
Giá đô la Mỹ tuần này
Bảng dưới đây cho thấy tỷ lệ phần trăm thay đổi của đô la Mỹ (USD) so với các loại tiền tệ chính được niêm yết trong tuần này. Đô la Mỹ yếu nhất so với đô la Úc.
USD | EUR | GBP | CAD | AUD | JPY | NZD | CHF | |
USD | -0.35% | -0.57% | -0.50% | -1.31% | 0.19% | -0.65% | 0.30% | |
EUR | 0.35% | -0.21% | -0.14% | -0.94% | 0.54% | -0.27% | 0.65% | |
GBP | 0.56% | 0.21% | 0.07% | -0.74% | 0.74% | -0.07% | 0.85% | |
CAD | 0.50% | 0.15% | -0.07% | -0.81% | 0.67% | -0.14% | 0.79% | |
AUD | 1.29% | 0.93% | 0.74% | 0.80% | 1.42% | 0.66% | 1.59% | |
JPY | -0.19% | -0.54% | -0.76% | -0.67% | -1.49% | -0.81% | 0.11% | |
NZD | 0.66% | 0.28% | 0.06% | 0.14% | -0.67% | 0.77% | 0.89% | |
CHF | -0.29% | -0.65% | -0.86% | -0.79% | -1.61% | -0.11% | -0.92% |
Bản đồ nhiệt hiển thị phần trăm thay đổi của các loại tiền tệ chính so với nhau. Đơn vị tiền tệ cơ sở được chọn từ cột bên trái, trong khi loại tiền định giá được chọn từ hàng trên cùng. Ví dụ: nếu bạn chọn đồng euro từ cột bên trái và di chuyển dọc theo đường ngang đến đồng yên Nhật, phần trăm thay đổi được hiển thị trong ô sẽ đại diện cho đồng EUR (cơ sở)/JPY (báo giá).
Trong phiên giao dịch ở châu Á, dữ liệu từ Úc cho thấy lạm phát, được đo bằng sự thay đổi của Chỉ số giá tiêu dùng (CPI), đã giảm xuống 3,6% hàng năm trong quý đầu tiên từ mức 4,1%. Tuy nhiên, con số này cao hơn kỳ vọng của thị trường là 3,4%. Tính theo quý, CPI tăng 1% trong quý 1. AUD/USD đã thu thập động lực tăng giá sau dữ liệu lạm phát và lần cuối cùng được nhìn thấy là tăng gần 0,5% trong ngày trên 0,6500.
Australian Dollar holds position due to risk-on sentiment amid stable US Dollar.
EUR/USD đã tăng 0,5% vào thứ Ba và lần đầu tiên tăng lên trên 1,0700 sau hơn một tuần. Cặp tiền tệ này tương đối yên tĩnh ở mức gần 1,0700 vào buổi sáng châu Âu.
GBP/USD được hưởng lợi từ sự suy yếu chung của đồng USD vào thứ Ba và tăng 0,8%, chấm dứt chuỗi giảm giá kéo dài ba ngày. Cặp tiền tệ này giữ ổn định ở mức khoảng 1,2450 vào đầu ngày thứ Tư.
USD/JPY đã bỏ qua áp lực bán xung quanh đồng USD và kéo dài hành động đi ngang vào thứ Ba. Cặp tiền tệ này giao dịch trong phạm vi vài pip là 155,00 trong phiên giao dịch châu Âu.
Japanese Yen hangs near multi-decade low against USD, close to 155.00 mark.
Sau khi ghi nhận đợt giảm trong một ngày lớn nhất trong năm khi giảm hơn 2,5% vào thứ Hai, Vàng tiếp tục giảm xuống và giảm xuống dưới 2.300$ lần đầu tiên sau gần ba tuần vào thứ Ba. Mặc dù XAU/USD đã cố gắng phục hồi vào cuối ngày nhưng không lấy được đà. Đầu thứ Tư, cặp tiền tệ này giao dịch trong biên độ hẹp ở mức khoảng 2.320$.
Gold price ticks higher amid modest USD weakness, positive risk tone might cap gains.