Dưới đây là những điều bạn cần biết vào thứ Năm, ngày 22 tháng 2:
Đồng đô la Mỹ đã mất đà tăng trong phiên giao dịch châu Á vào thứ Năm và giảm xuống dưới 104,00, chịu áp lực bởi sự cải thiện trong tâm lý rủi ro. Những người tham gia thị trường hiện đang hướng trọng tâm đến dữ liệu về chỉ số PMI ngành sản xuất và dịch vụ của HCOB cho Đức và Eurozone, chỉ số PMI của S&P Global/CIPS cho Vương quốc Anh và chỉ số PMI của S&P Global cho Mỹ.
Trong biên bản cuộc họp chính sách tháng 1, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) cho biết, hầu hết các nhà hoạch định chính sách đều lưu ý những rủi ro liên quan đến việc thực hiện nới lỏng chính sách tiền tệ quá nhanh và nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đánh giá cẩn thận dữ liệu sắp tới trong việc đánh giá liệu lạm phát có giảm bền vững xuống 2% hay không. "Các quan chức nhấn mạnh sự không chắc chắn xung quanh việc lập trường chính sách hạn chế sẽ cần bao lâu", ấn phẩm lưu ý thêm. Mặc dù ngay sau đó đồng USD đã tăng cao hơn, nhưng đồng tiền này đã mất đi mức tăng khi tâm lý rủi ro bắt đầu thống trị thị trường tài chính vào cuối ngày. Đầu ngày thứ 5, hợp đồng tương lai Nasdaq tăng hơn 1,5% nhờ số liệu thu nhập lạc quan của Nvidia. Trong khi đó, lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ kỳ hạn 10 năm chuẩn giữ ổn định ở mức khoảng 4,3% sau khi tăng khiêm tốn vào thứ Tư.
Bảng dưới đây cho thấy tỷ lệ phần trăm thay đổi của Đô la Mỹ (USD) so với các loại tiền tệ chính được niêm yết trong tuần này. Đô la Mỹ là yếu nhất so với đồng đô la New Zealand.
USD | EUR | GBP | CAD | AUD | JPY | NZD | CHF | |
USD | -0,54% | -0,36% | -0,14% | -0,62% | 0,08% | -1,18% | -0,42% | |
EUR | 0,54% | 0,19% | 0,40% | -0,07% | 0,62% | -0,63% | 0,12% | |
GBP | 0,36% | -0,18% | 0,23% | -0,26% | 0,41% | -0,82% | -0,07% | |
CAD | 0,14% | -0,40% | -0,21% | -0,49% | 0,20% | -1,03% | -0,29% | |
AUD | 0,64% | 0,09% | 0,28% | 0,50% | 0,69% | -0,53% | 0,21% | |
JPY | -0,07% | -0,62% | -0,40% | -0,19% | -0,73% | -1,24% | -0,49% | |
NZD | 1,17% | 0,63% | 0,81% | 1,03% | 0,55% | 1,23% | 0,74% | |
CHF | 0,43% | -0,11% | 0,07% | 0,28% | -0,19% | 0,48% | -0,74% |
Bản đồ nhiệt cho thấy tỷ lệ phần trăm thay đổi của các loại tiền tệ chính với nhau. Đồng tiền yết giá được chọn từ cột bên trái, trong khi đồng tiền định giá được chọn từ hàng trên cùng. Ví dụ: nếu bạn chọn Euro từ cột bên trái và di chuyển dọc theo đường ngang sang Yên Nhật, phần trăm thay đổi được hiển thị trong hộp sẽ đại diện cho EUR (cơ sở) / JPY (báo giá).
EUR/USD đã thu thập động lực tăng giá và tăng lên mức 1,0850 vào đầu ngày thứ Năm, mức cao nhất trong gần ba tuần trong quá trình này. Các cuộc khảo sát về chỉ số PMI từ khu vực đồng Euro và Đức được dự báo sẽ cho thấy sự thu hẹp liên tục trong hoạt động kinh doanh của khu vực tư nhân vào đầu tháng 2.
GBP/USD tiếp tục tăng cao hơn sau khi đóng cửa hai ngày trước đó trong vùng tích cực và gần đây giao dịch một vài pip trên mức 1,2650.
Dữ liệu từ Úc cho thấy chỉ số PMI tổng hợp của Judo Bank đã cải thiện lên 51,8 trong ước tính sơ bộ của tháng 2 từ mứ 49 trong tháng 1, điều này giúp làm nổi bật đà tăng trưởng trong khu vực tư nhân. AUD/USD đã đạt được động lực tăng sau dữ liệu này và tiến tới mức 0,6600.
Chỉ số PMI ngành dịch vụ của ngân hàng Jibun giảm xuống 52,5 từ 53,1 tại Nhật Bản trong khi chỉ số PMI sản xuất giảm từ 48 xuống 47,2. Bất chấp sự sụt giảm trên diện rọng của đồng USD, USD/JPY giữ tương đối ổn định trên 150,00 sau dữ liệu ảm đạm về chỉ số PMI.
USD/CAD đã ghi nhận mức giảm nhỏ vào thứ Tư trước khi giảm mạnh về khu vực 1,3450 trong phiên châu Á vào thứ Năm. Cơ quan Thống kê Canada sẽ công bố dữ liệu Doanh số bán lẻ cho tháng 12 vào cuối ngày.
Vàng không được hưởng lợi từ áp lực bán xung quanh USD và đóng cửa hầu như không thay đổi vào thứ Tư. Mặc dù XAU/USD duy trì được mức tăng nhỏ ở mức khoảng 2.030$ vào đầu ngày thứ Năm, nhưng khả năng phục hồi của lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ đã hạn chế đà tăng của cặp tài sản này.