Dưới đây là những thông tin bạn cần biết vào thứ Tư, ngày 8 tháng 5:
Đồng đô la Mỹ (USD) vẫn kiên cường trước các đối thủ của nó vào đầu ngày thứ Tư sau khi ghi nhận mức tăng nhẹ vào thứ Ba. Lịch kinh tế Mỹ sẽ công bố Hồ sơ xin vay thế chấp MBA hàng tuần và Tồn kho bán sỉ cho tháng 3. Trong khi đó, những người tham gia thị trường sẽ vẫn tập trung vào nhận xét từ các nhà hoạch định chính sách của Cục Dự trữ Liên bang (Fed). Ngoài ra, Kho bạc Mỹ sẽ tổ chức đấu giá trái phiếu kỳ hạn 10 năm sau phiên giao dịch tại Mỹ.
Diễn biến trái chiều của các chỉ số chính của Phố Wall và một số nhận xét diều hâu từ Thống đốc Cục Dự trữ Liên bang Minneapolis Neel Kashkari đã giúp USD tìm thấy nhu cầu trong nửa cuối ngày thứ Ba. Sau khi đóng cửa trong vùng tích cực, chỉ số USD tiếp tục tăng cao hơn trong phiên giao dịch châu Á vào thứ Tư và lần cuối cùng được nhìn thấy là tăng gần 0,2% trong ngày trên 105,50. Vào buổi sáng ở châu Âu, hợp đồng tương lai chỉ số chứng khoán của Mỹ giao dịch ở mức thấp hơn một cách khiêm tốn và lãi suất trái phiếu chính phủ Mỹ kỳ hạn 10 năm vẫn duy trì ở mức tăng nhỏ trong khi vẫn ở mức dưới 4,5%.
Bảng dưới đây cho thấy tỷ lệ phần trăm thay đổi của đô la Mỹ (USD) so với các loại tiền tệ chính được niêm yết trong tuần này. Đô la Mỹ mạnh nhất so với đồng euro.
USD | EUR | GBP | JPY | CAD | AUD | NZD | CHF | |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|
USD | -0.20% | -0.48% | -1.43% | -0.61% | -0.49% | -0.36% | -0.47% | |
EUR | 0.20% | -0.19% | -1.10% | -0.35% | -0.08% | -0.08% | -0.18% | |
GBP | 0.48% | 0.19% | -0.95% | -0.15% | 0.10% | 0.11% | 0.03% | |
JPY | 1.43% | 1.10% | 0.95% | 0.81% | 0.94% | 1.09% | 0.94% | |
CAD | 0.61% | 0.35% | 0.15% | -0.81% | 0.00% | 0.26% | 0.20% | |
AUD | 0.49% | 0.08% | -0.10% | -0.94% | -0.00% | -0.01% | -0.02% | |
NZD | 0.36% | 0.08% | -0.11% | -1.09% | -0.26% | 0.01% | -0.06% | |
CHF | 0.47% | 0.18% | -0.03% | -0.94% | -0.20% | 0.02% | 0.06% |
Bản đồ nhiệt hiển thị phần trăm thay đổi của các loại tiền tệ chính so với nhau. Đơn vị tiền tệ cơ sở được chọn từ cột bên trái, trong khi loại tiền định giá được chọn từ hàng trên cùng. Ví dụ: nếu bạn chọn đồng euro từ cột bên trái và di chuyển dọc theo đường ngang đến đồng yên Nhật, phần trăm thay đổi được hiển thị trong ô sẽ đại diện cho đồng EUR (cơ sở)/JPY (báo giá).
Trong giờ giao dịch ở châu Á, Thống đốc Ngân hàng trung ương Nhật Bản (BoJ) Kazuo Ueda nói rằng chính sách tiền tệ này nhằm mục đích tác động đến lạm phát chứ không phải tỷ giá hối đoái của đồng yên Nhật. Thống đốc Ueda nói thêm: “Ngân hàng trung ương Nhật Bản có thể cần phải phản ứng thông qua chính sách tiền tệ nếu tác động như vậy đối với đồng yên ảnh hưởng đến xu hướng lạm phát”. Sau khi kết thúc hai ngày giao dịch đầu tuần trong sắc xanh, USD/JPY tiếp tục tăng cao hơn bất chấp những nhận xét này và lần cuối cùng người ta nhìn thấy giao dịch trên mức 155,00.
EUR/USD đóng cửa trong vùng tiêu cực vào thứ Ba và giành được chuỗi tăng giá kéo dài 4 ngày. Cặp tiền tệ này vẫn ổn định vào đầu ngày thứ Tư và giao dịch dưới mức 1,0750.
GBP/USD đã giảm gần 0,5% vào thứ Ba và kéo dài mức trượt xuống dưới 1,2500 vào giữa tuần. Vào thứ Năm, Ngân hàng ương ương Anh sẽ công bố các quyết định về chính sách tiền tệ.
Vàng đã không thể duy trì đà phục hồi vào thứ Hai và đóng cửa ở mức dưới 2.320$ vào thứ Ba. XAU/USD tương đối yên tĩnh vào đầu ngày Thứ Tư và ở gần mức đóng cửa của Thứ Ba.
Gold price gains momentum, despite a firmer US Dollar.
AUD/USD chịu áp lực giảm giá vào thứ Ba khi Ngân hàng Dự trữ Úc (RBA) áp dụng quan điểm thận trọng liên quan đến việc thắt chặt hơn nữa sau khi không thay đổi các thiết lập chính sách. Cặp tiền tệ này giảm thấp hơn vào thứ Tư và lần cuối cùng được nhìn thấy giao dịch dưới 0,6600.
Australian Dollar extends losses amid less hawkish stance from the RBA.