Dưới đây là những thông tin bạn cần biết vào thứ Ba, ngày 7 tháng 5:
Đồng đô la Úc (AUD) suy yếu so với các đối thủ vào đầu ngày thứ Ba khi các nhà đầu tư đánh giá các quyết định và nhận xét về chính sách tiền tệ của Ngân hàng Dự trữ Úc (RBA) từ Thống đốc Michele Bullock. Eurostat sẽ công bố Doanh số bán lẻ trong tháng 3 và danh sách kinh tế Mỹ sẽ có dữ liệu về Sự lạc quan về kinh tế và Thay đổi tín dụng tiêu dùng. Trong khi đó, các nhà đầu tư sẽ tiếp tục chú ý đến những bình luận từ các quan chức ngân hàng trung ương.
RBA giữ nguyên lãi suất chính sách ở mức 4,35% như dự đoán sau cuộc họp chính sách tháng 5. Trong tuyên bố chính sách của mình, RBA lưu ý rằng lạm phát tiếp tục ở mức vừa phải, mặc dù với tốc độ chậm hơn dự kiến. Trong cuộc họp báo sau cuộc họp, Thống đốc RBA Bullock nói rằng lãi suất ở mức hiện tại sẽ đưa lạm phát trở lại mục tiêu và nói thêm rằng bà không nghĩ rằng cần phải thắt chặt chính sách một lần nữa. AUD/USD vẫn chịu áp lực giảm giá vào sáng sớm châu Âu và lần cuối cùng được nhìn thấy là mất 0,3% trong ngày gần mức 0,6600.
Bullock Speech: RBA Governor speaks on policy outlook after holding interest rate.
Gía đô la Úc hôm nay
Bảng dưới đây cho thấy tỷ lệ phần trăm thay đổi của đô la Úc (AUD) so với các loại tiền tệ chính được liệt kê hiện nay. Đồng đô la Úc yếu nhất so với đồng yên Nhật.
USD | EUR | GBP | JPY | CAD | AUD | NZD | CHF | |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|
USD | -0.05% | -0.12% | -0.40% | -0.11% | -0.35% | 0.00% | -0.10% | |
EUR | 0.05% | -0.07% | -0.33% | -0.05% | -0.27% | 0.04% | -0.05% | |
GBP | 0.12% | 0.07% | -0.27% | 0.03% | -0.20% | 0.12% | 0.02% | |
JPY | 0.40% | 0.33% | 0.27% | 0.29% | 0.03% | 0.42% | 0.26% | |
CAD | 0.11% | 0.05% | -0.03% | -0.29% | -0.22% | 0.09% | -0.01% | |
AUD | 0.35% | 0.27% | 0.20% | -0.03% | 0.22% | 0.35% | 0.21% | |
NZD | -0.00% | -0.04% | -0.12% | -0.42% | -0.09% | -0.35% | -0.11% | |
CHF | 0.10% | 0.05% | -0.02% | -0.26% | 0.00% | -0.21% | 0.11% |
Bản đồ nhiệt hiển thị phần trăm thay đổi của các loại tiền tệ chính so với nhau. Đơn vị tiền tệ cơ sở được chọn từ cột bên trái, trong khi loại tiền định giá được chọn từ hàng trên cùng. Ví dụ: nếu bạn chọn đồng euro từ cột bên trái và di chuyển dọc theo đường ngang đến đồng yên Nhật, phần trăm thay đổi được hiển thị trong ô sẽ đại diện cho đồng EUR (cơ sở)/JPY (báo giá).
Chỉ số đô la Mỹ (USD) đóng cửa ngày giao dịch đầu tiên trong tuần hầu như không thay đổi do tâm lý rủi ro được cải thiện khiến đồng USD khó lấy lại sức mạnh. Đầu thứ Ba, giao dịch tương lai chỉ số chứng khoán Mỹ không đồng đều và lãi suất trái phiếu chính phủ Mỹ kỳ hạn 10 năm vẫn ở mức dưới 4,5%.
EUR/USD dao động trong một kênh chặt chẽ trên 1,0750 một chút trong phiên giao dịch châu Âu vào thứ Ba sau khi ghi nhận mức tăng nhỏ vào thứ Hai.
GBP/USD đóng cửa trong vùng tích cực trong ngày thứ tư liên tiếp vào thứ Hai nhưng gặp khó khăn trong việc duy trì đà tăng trong giờ giao dịch châu Á vào thứ Ba. Lần cuối cùng người ta nhìn thấy cặp tiền tệ này giao dịch với xu hướng giảm cận biên là trong ngày gần mức 1,2550.
USD/JPY đã tăng hơn 0,5% vào thứ Hai và mở rộng khả năng phục hồi đến khu vực 154,50 vào đầu ngày thứ Ba. Nhà ngoại giao tiền tệ hàng đầu của Nhật Bản, Masato Kanda, đã nhắc lại hôm thứ Ba rằng chính phủ Nhật Bản có thể thực hiện các bước cần thiết để đối phó với sự biến động quá mức của thị trường nhưng từ chối bình luận về tỷ giá hối đoái.
Vàng được hưởng lợi từ việc lãi suất trái phiếu Mỹ giảm và căng thẳng địa chính trị leo thang, tăng gần 1% mỗi ngày. XAU/USD tương đối yên tĩnh ở mức khoảng 2.320$ vào buổi sáng châu Âu.